Menu
phụ gia:
Món
phụ gia thứ nhất: Sử dụng nhuần nhuyễn các giới từ: to, in, out, into,
there, at, by, on, down there, up here, about, above, across, after, against,
along, among, around…
Món phụ gia thứ hai: Tập trò chơi tung hứng với các trợ động từ
Món phụ gia thứ hai: Tập trò chơi tung hứng với các trợ động từ
Món phụ gia thứ ba: Tận dụng sức mạnh của what, when, where, why, which, that,
who…để đơn giản hóa những câu phức
tạp.
Món phụ gia thứ tư: Sử dụng các từ (cụm từ) đệm để kéo dài thời gian
Món phụ gia thứ tư: Sử dụng các từ (cụm từ) đệm để kéo dài thời gian
Món phụ gia thứ nhất: Sử dụng nhuần nhuyễn các giới từ: to, in,
out, into, there, at, by, on, down there, up here, about, above, across, after,
against, along, among, around…
Hầu hết
người học tiếng Anh đều đã từng học qua các giới từ. Nhưng ít người biết giới từ
là một trong những “nút cổ chai” quan trọng cản trở việc nói tiếng Anh trôi
chảy. Thường thì mọi người ít chú ý đến chúng. Ngoài ra các giáo trình tiếng Anh
thường không dành nhiều thời gian cho việc luyện tập các giới từ. Trong khi
đó giới từ lại có mặt ở khắp mọi nơi trong các đoạn hội thoại.
Hãy thử kiểm tra trên www.wordcount.org/main.php (một trang web xếp hạng mức độ
phổ biến của các từ vựng trong tiếng Anh) về mức độ xuất hiện của những giới từ
trong tiếng Anh, bạn sẽ thấy:
- IN
xếp thứ 6
- OUT
xếp thứ 65
- TO
xếp thứ 4
-
INTO xếp thứ 61
-
THERE xếp thứ 35
-
…
Điều
gì sẽ xảy ra nếu bạn thường xuyên phải dùng đến các từ vựng này trong bất kỳ
tình huống hội thoại nào mà bạn lại không sử dụng chúng một cách nhuần
nhuyễn? Lẽ dĩ nhiên là khi ấy bạn không thể nói tiếng Anh tốt
được.
Trước đây
khi còn đi học, tôi phát hiện ra điều này khi tham gia một lớp học khiêu vũ do
một giáo viên người Mỹ hướng dẫn. Tôi và một cô bạn cùng lớp (người nước ngoài)
tập luyện cho bài biểu diễn trước lớp. Mặc dù vào thời điểm đó tiếng Anh của tôi
đã khá tốt, tôi rất ngạc nhiên khi thấy mình vô cùng lúng túng khi trao đổi với
cô bạn về các động tác của bài nhảy. Tôi rất khó khăn để mô tả các động tác như:
“chân trái thu vào trong, chân phải duỗi ra ngoài, hai tay vòng lên trên đầu…”.
Ngay khi nhận ra vấn đề của mình, tôi về nhà nghiên cứu, tập luyện và khắc phục
sự lóng ngóng của mình với các giới từ. Điều thú vị là sau khi sử dụng thạo
những giới từ này thì khả năng nói tiếng Anh của tôi được cải thiện rõ
rệt.
Một trong
những mẹo đơn giản và nhanh chóng để luyện tập giới từ là tìm đọc các bài viết
và xem các video hướng dẫn có nội dung liên quan đến các chủ đề như: các bài tập
thể dục, các bài học nhảy, các bài hướng dẫn bạn thao tác một cái gì đó (như gấp
giấy Nhật Bản chẳng hạn). Các bài hướng dẫn này chắc chắn phải sử dụng rất nhiều
giới từ, mặt khác chúng lại trực quan sinh động nên có thể giúp bạn nắm bắt rất
nhanh cách dùng. Ngay sau khi bạn đọc hoặc xem các hướng dẫn, hãy tự mình luyện
tập bằng cách nói (hướng dẫn) lại bài đó cho người khác nghe. Tất nhiên bạn
không cần thiết phải thực sự có một ai đó bên cạnh, hướng dẫn cho một con mèo
(hay một chú gấu bông :) )cũng đem lại hiệu quả tương tự, và đó là cách tôi
thường làm trước đây.
Món phụ gia thứ hai: Tập trò chơi
tung hứng với các trợ động từ
Tiếng Việt
có một điểm chung so với các ngôn ngữ khác ở khu vực Đông Nam Á cũng như Trung
Quốc, đó là ngôn ngữ thuộc dạng đơn lập (isolating language). Có nghĩa là ngữ
pháp tiếng Việt phụ thuộc vào thứ tự sắp xếp các từ và cấu trúc câu chứ không
dựa vào sự thay đổi “dạng” (form) của từ. Trái lại, phần lớn các ngôn ngữ phương
Tây, trong đó có tiếng Anh, lại có ngữ pháp dựa vào sự thay đổi hình thái của từ
(morphology). Đặc điểm này khiến một người Mỹ học nói tiếng Pháp hoặc tiếng
Italy có vẻ thuận lợi hơn một chút so với người Việt khi học tiếng Anh hoặc
tiếng Pháp. Tương tự như vậy, người Việt khi học nói tiếng Trung lại có vẻ dễ
dàng hơn so với người Mỹ muốn học thứ ngôn ngữ Châu Á này.
Việc có khá nhiều trợ động từ khác nhau kèm theo sự phức tạp trong cách sử dụng trợ động từ trong tiếng Anh làm chúng ta bị lúng túng và chậm chạp khi nói.
Nếu để ý bạn
sẽ thấy tiếng Việt của chúng ta hầu như rất ít trợ động từ. Cho dù chúng ta vẫn
có trợ động từ thì vai trò của chúng khá mờ nhạt và trong nhiều
trường hợp là không bắt buộc đối với hội thoại hàng ngày.
Ví dụ: với
trợ động từ “có”
- Trong tiếng Việt: (Câu hỏi) Cậu có muốn học tiếng Anh không? – (Trả lời) Tôi có (muốn học tiếng Anh)
- Trong tiếng Anh sẽ là: (Câu hỏi) Do you want to learn English? – (Trả lời) Yes, I do.
Có 3 khác
biệt cơ bản giữa việc sử dụng trợ động từ trong tiếng Anh và tiếng Việt. Điều
này khiến chúng ta cảm thấy rất “lóng ngóng” khi sử dụng trợ động từ khi nói
tiếng Anh:
Sự
khác biệt thứ nhất, trong tiếng Việt nhiều khi chúng ta bỏ trợ
động từ trong giao tiếp hàng ngày. Chẳng hạn trong ví dụ trên chúng ta có thể
nói: “Cậu muốn học tiếng Anh không? – (Trả lời) Tôi muốn”. Việc bỏ trợ động từ
“có” hầu như không ảnh hưởng đến ngữ nghĩa và ngữ pháp của hội
thoại này. Trái lại, người Anh/Mỹ ít khi bỏ trợ động từ, đặc biệt là trong câu
hỏi. Một ví dụ khác: “Did you do your homework?” Câu này trong
tiếng Việt sẽ là: “Cậu đã làm bài tập chưa?”. Trợ động từ ở đây
là “đã”. Tương tự như trên, nhiều khi chúng ta cũng bỏ trợ động
từ “đã” trong hội thoại hàng ngày và câu trên trở thành “Cậu làm bài tập
chưa?”
Như ta thấy,
vai trò của trợ động từ trong tiếng Việt khá mờ nhạt trong khi việc sử dụng đúng
trợ động từ lại quan trọng đối với tiếng Anh.
Sự
khác biệt thứ hai, cấu trúc cú pháp của tiếng Anh thường đảo trợ
động từ lên đầu câu hỏi trong khi tiếng Việt của chúng ta không làm như vậy.
Chúng ta không nói là “Đã cậu làm bài tập chưa?” mà vẫn giữ
nguyên thứ tự “Cậu đã làm bài tập” và thêm từ
“chưa” để diễn đạt câu hỏi.
Sự khác biệt về cách sắp xếp trật tự từ trong ngôn ngữ phương Tây làm bộ não của chúng ta bị lúng túng khi sắp xếp các từ để tạo thành câu.
Sự
khác biệt thứ ba, tiếng Anh chia trợ động từ ở các dạng khác nhau
khi dùng với các ngôi khác nhau của đại từ. Ví dụ: ở thì hiện tại He, she,
it dùng với does còn I, we, you lại dùng với do.
Trong khi tiếng Việt thì không cần phải chia gì cả. Đây lại là một khác biệt nữa
khiến chúng ta “vướng víu” hơn khi nói tiếng Anh.
Ngoài những
khác biệt kể trên thì chúng ta phải chấp nhận một thực
tế rằng trong khi trợ động từ ở tiếng Việt khá ít, cách sử dụng đơn giản và
không bắt buộc thì tiếng Anh lại có một loạt khá nhiều các loại trợ động từ khác
nhau như: do, be, have, will, would, could, can, may… Các trợ động từ
này lại có các biến thể khác nhau khi sử dụng ở các thì (thời) và với các ngôi
khác nhau.
Trong quá
trình tập nói tiếng Anh của bản thân tôi và khi hướng dẫn các bạn bè và học viên
của mình, tôi nhận thấy rằng sự lúng túng trong việc sử dụng các trợ động từ
chính là một trong những “nút cổ chai” khiến việc diễn đạt bằng tiếng Anh của
người học không được trôi chảy như ý muốn.
Giải pháp duy nhất ở đây là bạn phải tập trung dành một khoảng thời gian để luyện tập với các trợ động từ này sao cho bạn có thể tung hứng với chúng một cách nhuần nhuyễn.
Bạn sẽ ngạc
nhiên khi thấy rằng chỉ riêng việc sử dụng thành thạo các trợ động từ cũng đã
đem đến thay đổi đáng kể trong kỹ năng nói tiếng Anh của bạn rồi. Cho dù các trợ
động từ trong tiếng Anh có nhiều hơn trong tiếng Việt thì chúng cũng chỉ giới
hạn xung quanh một số trợ động từ kể trên với vài biến thể khác nhau cho những
trợ động từ do, have, be. Do vậy chỉ cần dành một chút thời gian để ý
đến chúng mỗi khi tập nói là bạn sẽ nhanh chóng làm quen với chúng thôi. Dưới
đây là 2 thủ thuật giúp bạn nhanh chóng làm quen với trợ động từ của tiếng
Anh.
Thủ
thuật thứ nhất: Sử dụng câu hỏi đuôi. Bạn hãy tích cực sử dụng câu
hỏi đuôi khi thực hành nói tiếng Anh. Bao gồm cả câu hỏi đuôi ở 2 dạng khẳng
định và phủ định. Chẳng hạn thay vì chỉ nói: “He loves her”, bạn hãy nói: “He
loves her, doesn’t he?” (anh ấy yêu cô ấy, phải
không?). Hoặc thay vì: “He didn’t want to go there”, thì hãy nói: “He didn’t
want to go there, did he?” Việc dùng các câu hỏi đuôi
như vậy gần như không làm thay đổi ý nghĩa của câu nói nhưng lại giúp bạn liên
tục tiếp xúc với các trợ động từ ở các dạng (form) khác nhau. Do vậy chỉ sau một
thời gian ngắn là bạn đã có thể làm quen với chúng.
Thủ
thuật thứ hai:Nhắc lại trợ động từ khi trả lời câu hỏi. Hầu hết
người Việt chúng ta khi trả lời câu hỏi dạng yes/no (yes/no question) thường chỉ
nói Yes! hoặc No! mà không nói đầy đủ “Yes, I do” hay “No, I don’t” (đối với câu
hỏi “Do you”). Có lẽ là do chúng ta không mấy khi trả lời “dài dòng” theo kiểu
“vâng, tôi có…” hay “không, tôi không…” khi dùng tiếng Việt.
Để nhanh chóng làm quen với trợ động từ bạn hãy thay đổi cách trả lời vắn tắt
“yes” hoặc “no” thành cách trả lời theo kiểu “I do”
hoặc “I don’t”.
Ví dụ: khi
được hỏi “Have you done your homework?”, bạn hãy trả lời: “I
have” hoặc “I haven’t”.
Hoặc khi
được hỏi: “Could you please make this payment soon?”, (anh/chị có thể
vui lòng thanh toán món này sớm được không ạ?) thay vì trả lời “yes”
hay “no” bạn hãy trả lời “I will” hay “I
won’t”.
Đây là 2
cách làm đơn giản nhưng rất hiệu nghiệm giúp bộ não của bạn thích nghi với cách
sắp xếp trật tự từ của tiếng Anh.
Món phụ gia thứ ba: Tận dụng sức mạnh của what, when, where,
why, which, that, who…để đơn giản hóa những câu phức
tạp.
Một trong
những “nút thắt” quan trọng khác của người tập nói tiếng Anh đó là sự lúng túng
khi họ muốn diễn đạt một câu phức tạp hơn.
Ví
dụ:
Sẽ là khá
đơn giản khi bạn muốn nói diễn đạt câu: thầy giáo đã dạy tôi những kiến thức
bổ ích – My teacher taught me useful knowledge.
Nhưng có thể
bạn sẽ lúng túng hơn khi muốn diễn đạt ý: Thầy giáo đã dạy tôi kiến thức bổ
ích hơn so với kiến thức bạn đọc trong sách giáo khoa. Thông thường người
học sẽ cố gắng diễn đạt theo những cách sau:
The teacher
taught me useful knowledge. It was more useful than the knowledge that you got
from the text book.
hoặc
The teacher
taught me useful knowledge which was more useful than the knowledge that you got
from the text book.
Các cách
diễn đạt trên khá dài dòng dễ làm câu nói của bạn bị lủng củng. Nếu bạn sử dụng
thành thạo “what” trong trường hợp này thì bạn có thể diễn đạt như
sau: what the teacher taught me was better than what you got from
the book. Cách nói này không những ngắn gọn hơn mà còn có thể dùng kể cả
khi bạn không nhớ được từ “knowledge”.
Những từ
thường được dùng trong tiếng Anh theo kiểu này bao gồm: what, when, where,
why, which, that, who.
Ngoài ra
những danh từ như: one (chỉ người hoặc vật), thing (danh từ
chỉ vật) cũng cực kỳ hữu ích giúp bạn nói lưu loát.
Ví
dụ:
The one you mentioned
yesterday gave me this thing. (Nhân vật mà cậu đề cập hôm qua đã đưa tôi
cái này)
Những đại từ
và danh từ dùng để thay thế kiểu này không nhiều, bạn hãy chịu khó bỏ thời gian
nghiên cứu cách dùng và luyện tập với chúng. Kỹ năng nói của bạn sẽ được đền đáp
xứng đáng.
Món phụ gia thứ tư: Sử dụng các từ (cụm từ) đệm để kéo dài thời
gian
Khi tôi
hướng dẫn đến đây chắc hẳn sẽ có một số giáo viên dạy ngoại ngữ phản đối. Tuy
nhiên dùng nó hay không là tùy bạn, và thực tế là mọi người đều vẫn đã, đang, và
sẽ tiếp tục sử dụng chúng trong hội thoại hàng ngày với ngôn ngữ mẹ đẻ của mình,
dù là người Anh/Mỹ hay người Việt. Đó là những cụm từ như: vấn đề ở đây là,
cá nhân tôi cho rằng, điểm mấu chốt là, nói chung thì… và hàng loạt các
loại rằng, thì, mà, là… khác.
Có lẽ ít
người để ý tại sao chúng ta lại hay sử dụng những cụm từ kiểu này, mặc dù về mặt
ngữ nghĩa chúng hầu như không có giá trị gì. Sở dĩ mọi người dùng chúng là vì
trong khi nói, dù bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, đôi lúc chúng ta vẫn cần thêm thời gian
để lựa chọn ngôn từ. Khi ấy các cụm từ kể trên là công cụ đắc lực giúp người nói
có thêm một vài giây để suy nghĩ. Nói theo cách hiện đại là “câu giờ”. Cách “câu
giờ” này ít ra thì cũng còn hay hơn nhiều so với việc bạn cứ “à, ờ, ừm…“. Nếu
bản thân những người Anh, người Mỹ cũng phải viện đến chúng để “câu giờ” thì tại
sao chúng ta lại không nhỉ? Các cụm từ sau sẽ giúp bạn thoải mái, tự tin và thậm
chí đôi lúc tỏ ra “sành điệu” hơn khi nói tiếng Anh:
-
it’s like...- kiểu như là…
- The
thing is… - vấn đề là…
- The
bottom line here is… - điểm mấu chốt ở đây là…
- You
know… - Cậu biết đấy…
- To
be frank… - Nói thật là…
- In
general.. – Nói chung thì…
-
…
Nhất thời
tôi chỉ nhớ một vài cụm từ phổ biến, còn lại bạn tự tìm hiểu thêm
nhé.
Tuy nhiên
cái gì cũng không nên bị lạm dụng quá. Tôi từng biết một cô bạn liên tục đệm
“you know” khi nói tiếng Anh, và tất nhiên việc lặp lại cụm từ đệm quá
nhiều có thể gây khó chịu cho người nghe. Khi bạn nói ngày càng trôi chảy hơn,
hãy chủ động tiết chế việc sử dụng các cụm từ đệm này.
Hung Quang
Pham
Tác giả,
“5 Steps to Speak a New Language”
www.5BuocDeNoiMotNgoaiNgu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nếu không muốn hiện thông tin cá nhân, Bạn có thể chọn "Nhận xét với tư cách Ẩn danh"